Hệ thống câu hỏi 2 điểmRừng xà nu - Nguyễn Trung Thành
Câu 1: Trình bày hiểu biết về tác giả Nguyễn Trung Thành.
Trả lời:
- Tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, bút danh dùng trong thời kì chống Mĩ cứu nước là Nguyên Ngọc
- Sinh năm 1932 ở tỉnh Quảng Nam
- Là một nhà văn mặc áo lính, từng hoạt động tại núi rừng Tây Nguyên nên có sự gắn bó với Tây Nguyên và con người nơi đây.
- Một trong những sác tác tiêu biểu của ông là tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” (1955) đã được tặng giải Nhất Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam.
- Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965, khi đế quốc Mĩ ồ ạt đổ quân vào miền Nam nước ta.
-
Câu 2: Ý nghĩa nhan đề “Rừng xà nu”.
Trả lời:
- Truyện ngắn “Rừng xà nu” có thể được đặt những nhan đề khác như: “Những cây xà nu không bao giờ chết”; “Người anh hùng Tnú”; “Mảnh đất anh hùng”; “Đêm tái sinh”, vv… nhưng tất cả những nhan đề trên có lẽ đều không thích hợp bằng nhan đề “Rừng xa nu”. Cụ thể:
+ Nhan đề: “Những cây xà nu không bao giờ chết”: Khắc họa hình ảnh xà nu nhưng không phải “rừng” – một danh từ mang ý nghĩa tập hợp và liên kết, mà chỉ đơn giản là “những cây xà nu” – cụm danh từ có phần rời rạc và đề cao tính cá thể nhiều hơn sự đồng lòng. Cụm từ “không bao giờ chết” đề cao sự bất khuất kiên cường của cây xà nu, tuy nhiên đấy không phải tính chất duy nhất của nó, nếu đặt nhan đề như vậy sẽ có hàm ý nhấn mạnh tính chất ngoan cường mà thôi.
+ Nhan đề “Người anh hùng Tnú”: Đặt nhan đề theo nhân vật chính hoặc nhân vật trung tâm của tác phẩm không phải một gợi ý tồi, tuy nhiên nếu đặt như vậy sẽ tự thu gọn quy mô của câu chuyện lại xung quanh một đời người, trong khi những gì “Rừng xà nu” ôm ấp nhiều hơn thế rất nhiều. Câu chuyện xoay quanh nhân vật Tnú, nhưng thực chất là để qua đó khắc họa số phận và vẻ đẹp của cả cộng đồng.
+ Nhan đề “Mảnh đất anh hùng”: Nêu được không gian của câu chuyện và tính chất của cộng đồng mà tác phẩm muốn lột tả, tuy nhiên nhìn chung nhan đề này hơi đơn giản, thiếu sức gợi và nghèo nàn về hình ảnh.
+ Nhan đề “Đêm tái sinh”: Nhan đề này sẽ nhấn mạnh vào một trong những sự kiện quan trọng nhất của câu chuyện, đó là đêm mà cả làng Xô Man đã cầm giáo mác đứng dậy đấu tranh, chống lại ngọn súng của quân thù. Nhan đề quả thực đã thể hiện thế “lội ngược dòng” của người dân làng, đi từ trạng thái mất tất cả cho đến chiếm lĩnh mọi thứ, từ sự hủy diệt cho đến sự tái sinh. Tuy nhiên nếu đặt như vậy, nhan đề sẽ gần như “bỏ quên” hẳn một phần mà tác phẩm muốn đề cập, đó là nỗi đau đớn khôn cùng, sự mất mát không gì có thể bù đắp mà bản thân Tnú nói riêng và những người dân làng Xô Man nói chung đã phải trải qua. Đó là sự hủy diệt, nhưng đồng thời là bước đệm để đi tới sự tái sinh sau chót, vì vậy không thể chỉ nhấn vào “đêm tái sinh” mà quên rằng trước hết đó là “đêm hủy diệt”.
=> Như vậy nhan đề “Rừng xa nu” là một nhan đề phù hợp hơn cả, khi nó vừa thể hiện một hình ảnh gắn bó với dân làng – là đại diện cho số phận và vẻ đẹp của cộng đồng, vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
- Phân tích về mặt từ ngữ:
+ Không phải một cây xà nu, hai cây xà nu, vài cây xà nu, mà là một “rừng” xà nu. “Rừng” quả thực là một danh từ mang ý nghĩa tập hợp, tự nó đã tạo nên mội mối liên kết không gì có thể tách rời giữa những cây xà nu với nhau, cũng là với chính những người dân làng Xô Man với nhau.
+ Là “xà nu” chứ không phải loài cây nào khác, bởi lẽ đây là loài cây gắn bó với dân làng, một loài cây đặc biệt sinh trưởng nơi núi rừng Tây Nguyên, cũng là một loài cây “ham ánh sáng mặt trời” như con người Tây Nguyên luôn vươn tới ánh sáng chân lý.
=> Tạo nên một sự tập hợp đặc biệt như một lẽ tất nhiên, như một sự sắp đặt của tạo hóa.
- Ý nghĩa:
+ Tả thực: Là cánh rừng xuất hiện trong tác phẩm, là cái nền cho không gian truyện, cũng là loài cây gắn bó với người dân làng Xô Man. Nó xuất hiện như một hình tượng trung tâm trong truyện ngắn, bởi lẽ xuyên suốt tác phẩm ta đều bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời, hay những hình ảnh của xà nu trong đời sống hàng ngày của người dân.
+ Tượng trưng:
Là chứng nhân lịch sử không gì có thể đánh gục, luôn luôn theo sát những sự kiện lịch sử quan trọng của làng Xô Man
Là biểu tượng cho con người Tây Nguyên anh hùng với những phẩm chất cao đẹp: kiên cường, bất khuất, đùm bọc lẫn nhau, vượt qua đau thương, quật khởi theo Đảng làm Cách mạng..
Là sự nối tiếp các thế hệ, khẳng định sự tiếp nối tư tưởng hành động giữa những người dân làm Cách mạng. Một cây xà nu ngã xuống là sẽ có cây khác mọc lên, cũng giống như một thế hệ người dân làm Cách mạng trôi qua sẽ lại có một thế hệ mới sẵn sàng tiếp nối.
- Nhan đề góp phần thể hiện giá trị của tác phẩm:
+ Giá trị nội dung: Góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm
Ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu của người dân Tây Nguyên và con đường giải phóng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
+ Giá trị nghệ thuật: Khẳng định bút pháp nghệ thuật đậm tính sử thi và lãng mạn của truyện, khẳng định ngòi bút tinh tế và sự thấu hiểu, trân trọng của Nguyễn Trung Thành đối với người dân Tây Nguyên.
Câu 3: Phân tích câu văn mở đầu: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc.”
Trả lời:
Dẫn dắt khái quát về mặt kiến thức: Những câu văn mở đầu và những câu văn kết thúc của mỗi tác phẩm là điều chúng ta cần chú ý, bởi lẽ nó thường mang trong mình một ý đồ đặc biệt của tác giả. Phần mở thường mang tính khơi gợi và tạo nền ( không gian ) cho cả câu chuyện, còn phần kết có tác dụng khép lại, để lại những gì sâu xa lắng đọng nhất sau khi kết thúc cả một hành trình.
- Câu văn đầu tiên của truyện ngắn “Rừng xà nu” đã “đặt nền móng”, tạo nên một không gian đầy tính mở cho câu chuyện – không gian vừa có sự trỗi dậy của sự sống, vừa có mùi vị của sự hủy diệt. Câu văn cũng đã thể hiện được hoàn cảnh thực tại, khắc họa sự khốc liệt của chiến tranh thời kì chống Mỹ cứu nước.
- Phân tích về từ ngữ:
+ “Làng” – “tầm đại bác”: Có thể nói đây là hai hình ảnh gần như trái ngược nhau. “Làng” biểu trưng cho sự sống, trong khi đó “tầm đại bác” lại biểu trưng cho sự hủy diệt. Viết câu văn như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc họa hoàn cảnh nguy hiểm mà làng Xô Man đang phải đối mặt: sự sống đang bị kiểm soát và bị bóp nghẹt bởi ngọn súng hủy diệt của quân thù.
=> “Làng” rõ ràng là một không gian lớn, không gian của cộng đồng; còn “tầm đại bác” chỉ là một ngọn súng, tuy nhiên trớ trêu thay khi cái không gian cộng đồng tưởng chừng rộng lớn kia, lại đang chịu sự kiểm soát của sự hủy diệt mang hình hài bé nhỏ hơn nó rất nhiều.
+ Nguyễn Trung Thành đặt “làng” làm chủ ngữ, là chủ thể của hành động. Đây là một dụng ý quan trọng của người viết, bởi lẽ thực tại cho thấy “làng” đang trong thế bị động, nhưng tác giả lại muốn ta thấy rằng “làng” đang vô cùng chủ động dẫu trong tình thế bị kiểm soát ấy.
=> Ngay từ câu mở đầu, Nguyễn Trung Thành đã bắt đầu thể hiện niềm tin vào sự trỗi dậy chính sự sống đang tiềm tàng mãnh liệt trong mỗi người dân Xô Man, trong mỗi cá thể của ngôi làng đang “ở trong tầm đại bác của đồn giặc”.
- Câu văn đã phần nào thể hiện được nội dung chủ đạo của tác phẩm cùng ngòi bút đậm tính sử thi và chủ động trong cách trần thuật của nhà văn.
Câu 4: Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh bàn tay Tnú
Trả lời:
- Là một hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm:
+ Là bàn tay cầm phấn viết chữ do anh Quyết dạy cho; là bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt khi không học được chữ; cũng là bàn tay đặt lên bụng mình mà khảng khái nói: “Cộng sản ở đây này!” ..
+ Là bàn tay đã từng áp vào má Mai mà cảm nhận những giọt nước mắt của Mai sau nhiều ngày xa cách
+ Cũng bàn tay ấy đã chịu sự trừng phạt của quân thù, khi bị quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi châm lửa đốt, trở thành bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt.
+ Đến cuối truyện, đó là bàn tay đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó.
- Là một hình ảnh mang nhiều ý nghĩa biểu tượng:
+ Bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật đặc biệt, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số phận và tính cách của nhân vật.
Bàn tay của Tnú cũng trải qua một cuộc hành trình như chính cuộc đời nhiều thăng trầm của anh: khi còn lành lặn à bị giặc đốt mỗi ngón một đốt; cùng anh trải qua những dấu mốc quan trọng của số phận.
Lúc còn lành lặn, Tnú đã dùng bàn tay ấy dắt Mai lên rẫy trồng tỉa khi còn bé, đã xách xà lét giấu vài lon gạo đi nuôi anh Quyết ở trong rừng, đã cầm viên phấn bằng đá trắng để học từng chữ cái, để rồi chính bàn tay ấy, cũng tự lấy đá dập vào đầu vì học mãi không vào.. Đó là bàn tay của sự dũng cảm, gan dạ, khảng khái, là bàn tay thể hiện quyết tâm đến với cách mạng. Đó cũng là bàn tay mà Mai đã run run cầm lấy trong ngày Tnú thoát ngục Kon Tum, để rồi áp lên má khóc: “ứa nước mắt khóc, không phải vì như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu…” Và rồi cũng chính bàn tay ấy, đã để tuột mất hai người quan trọng nhất đời mình, đã không thể bảo vệ được Mai và con, là bàn tay của yêu thương và sự mất mát..
Lúc bàn tay nguyên vẹn không còn nữa, mỗi ngón bị cụt mất 1 đốt, bàn tay vừa là một nỗi đau không bao giờ Tnú có thể quên, cũng là một minh chứng lịch sử hùng hồn cho dân làng Xô Man ngày ấy. Khi chấp nhận sự thực “mười ngón tay mày vẫn cụt thế à…không mọc ra được nữa à…”, cũng là lúc cụ Mết quả quyết: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được.” Và quả thật sau này, chính bàn tay ấy đã trở thành bàn tay quả báo, bàn tay tự mình trừng trị những kẻ là nguồn gốc của mọi thương đau…
Bàn tay thể hiện được tính cách của nhân vật: sự dũng cảm, sự yêu thương, sự quật cường…(lựa chọn dẫn chứng như ở trên đã phân tích chạm đến – tùy cách triển khai và cách diễn đạt)
=> Xây dựng nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh đôi bàn tay, như một “bản lý lịch” cụ thể và sống động nhất cho cuộc đời của người anh hùng làng Xô Man, cũng là cho chính vẻ đẹp phẩm chất của Tnú
Câu 5: Nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Trả lời:
- Khái quát về nghệ thuật trần thuật: Có thể hiểu đơn giản là cách kể lại một câu chuyện. Câu chuyện được trần thuật thường có diễn biến, có nhân vật, và được xác định bởi một góc nhìn cụ thể trong tác phẩm. Nghệ thuật trần thuật chính là cách nhà văn đối ngoại với người đọc, hoặc trực tiếp qua ngôi kể thứ nhất xưng “tôi”, hoặc gián tiếp qua ngôi kể thứ 3 không xuất hiện trong tác phẩm.
- Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn “Rừng xà nu”: Là một câu chuyện đậm chất sử thi ngay từ đề tài, từ nhan đề, từ nhân vật,…, chất sử thi cũng thể hiện trong cả nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Trung Thành.
+ Ngôi kể: Ngôi thứ 3, không trực tiếp xuất hiện trong diễn biến câu chuyện. Lúc thì ngôi kể này “ẩn mình”, đứng bên ngoài câu chuyện; lúc thì nó lại đặt điểm nhìn vào chính người anh hùng sử thi của làng Xô Man: Tnú. Ngôi kể được sử dụng một cách linh hoạt, khiến cho câu chuyện được kể một cách khách quan, trang trọng; mà vẫn chân thực và truyền được cảm xúc đến độc giả.
+ Cách kể chuyện đầy hấp dẫn với hai mạch truyện đan xen: chuyện cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, được tái hiện qua lời kể của người già làng bên bếp lửa.
(Câu chuyện một đời người, một ngôi làng, được kể bởi một người già làng trong một đêm bên bếp lửa…- nhớ những cái một một.. thế cho dễ ^^)
Câu chuyện hiện thực đan cài với huyền thoại tạo nên chất sử thi hào hùng, hiện tại nối với quá khứ, những sự việc cứ nối tiếp nhau, lồng ghép vào nhau khiến không gian truyện càng được mở rộng. Tuy chỉ trong phạm vi không rộng của 1 truyện ngắn, nhưng Nguyễn Trung Thành lại thể hiện được một dung lượng đồ sộ với nhiều tình tiết, sự kiện diễn ra trong thời gian dài, với số phận cá nhân bên cạnh số phận cộng đồng, khiến hiện thực lịch sử được tái hiện vừa rộng vừa sâu.
Câu chuyện được kể như một câu chuyện lịch sử, bằng ngôn ngữ sử thi, trong một không khí hết sức trang trọng: ngoài trời lấm tấm mưa đêm, bên bếp lửa nhà ưng, dân làng Xô Man chăm chú lắng nghe câu chuyện huyền thoại dưới giọng kể của cụ Mết – già làng. Dường như người kể muốn truyền cho con cháu, cho thế hệ sau một ngọn lửa tinh thần cháy bỏng qua chính những trang sử đau thương mà oanh liệt ấy.
Giọng kể trang nghiêm, hào hùng cũng đem lại màu sắc thiêng liêng cho câu chuyện
“..Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể cho con cháu nghe…”
=> Nghệ thuật trần thuật độc đáo, giản dị mà tinh tế với “truyện lồng truyện”, đem lại chất sử thi cho câu chuyện đồng thời khẳng định ngòi bút sâu sắc của Nguyễn Trung Thành.
Câu 6: Tại sao người ra đón Tnú khi trở về thăm làng lại là thằng bé Heng mà không phải một nhân vật nào khác?
Trả lời:
- Trích dẫn chi tiết: “Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về. Ngày anh ra đi nó mới đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy…”
- Ngoài nhân vật Heng, Nguyễn Trung Thành cũng có nhiều sự lựa chọn khác cho vai trò “dẫn đường” đặc biệt này, như cụ Mết hay chị Dít. Tuy nhiên cách lựa chọn mỗi nhân vật đều thể hiện dụng ý riêng.
+ Nếu lựa chọn cụ Mết hoặc chị Dít – những người đã cùng Tnú tạo nên huyền thoại năm nào, những con người xuất hiện trong lịch sử và là một phần của những trang sử cũ, có lẽ câu chuyện sẽ đơn thuần chỉ là chuyến “hành hương” thăm lại làng cũ và những kí ức xưa, có lẽ huyền thoại ấy vẫn sẽ mãi chỉ là những điều đã qua và chỉ thuộc về những con người đó. Hay nói cách khác, như một vòng tuần hoàn lặp lại, người dẫn đường “cũ” sẽ khiến câu chuyện trở thành một vòng tròn khép kín mà thôi.
+ Lựa chọn thằng bé Heng, tức là Nguyễn Trung Thành lựa chọn một thế hệ mới, thế hệ trẻ - những người đã tiếp nhận câu chuyện xưa, và sẽ tiếp nối huyền thoại mà người xưa đã tạo dựng. Heng không chỉ là người dẫn đường “mới”, là người hứa hẹn sẽ viết tiếp những trang sử hôm nay, mà còn mang trong mình phảng phất hình ảnh của người anh hùng Tnú năm nào.
=> Để Heng dẫn đường Tnú, dường như Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hình ảnh của hai thế hệ bên nhau, qua đó khẳng định sự trưởng thành và đầy trải nghiệm của người đi trước, cũng như sự phát triển vượt trội đầy hứa hẹn của thế hệ tiếp sau. Điều tuyệt vời nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, có lẽ không chỉ nằm ở vẻ đẹp và sức mạnh của nó, mà quan trọng hơn, là sự tiếp nối – là sợi dây gắn kết bền chặt mọi thế hệ con người.
- Khắc họa hình ảnh Heng:
+ “Ngày anh ra đi nó mới đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Bây giờ nó mang một khẩu súng trường Mát, dẫn anh đi. Vẫn là con đường cũ, qua cái nà bắp đã trồng sắn và cây pom chu vắt lên hai cái dốc đứng sững đã được cắt ra từng bực, chui qua một rừng lách rậm ngày mưa thì vô số vắt lá, rồi đến cái làng nhỏ của anh. Nhưng nếu không có người dẫn, chắc chắn Tnú không dám đi một mình….”
=> Nếu như cụ Mết được Nguyễn Trung Thành khắc họa là “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa…”, Dít hiện lên trong ánh mắt Tnú giống Mai lạ lùng – nghĩa là những con người ấy đều không quá khác biệt, đều mang trong mình dáng dấp của lịch sử, dấu ấn của thời cũ; thì thằng bé Heng lại được khắc họa thông qua những sự thay đổi về ngoại hình và tính cách rất rõ. Heng giờ không chỉ cao lớn hơn, mà còn quả quyết hơn, mạnh mẽ hơn. Hình ảnh Heng cho ta thấy sự chuyển động của cuộc sống, của những thế hệ mới tại ngôi làng Xô Man huyền thoại.
+ “Thằng bé Heng lớn lên cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này. Nó đội một cái mũ sụp xin được của anh Giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”
=> Thay đổi, không có nghĩa là họ sẽ đi con đường khác. Bởi lẽ thằng bé Heng thật sự mang hình ảnh của Tnú năm nào, và biết đâu trong tương lai, chính nó sẽ trở thành một huyền thoại mới, huyền thoại mang trong mình vẻ đẹp của cộng đồng và có số phận trùng khít với số phận của cộng đồng. Như vậy, thay đổi, là để tiếp nối.
Hình ảnh đó minh chứng cho việc, những con người ấy không hề ngủ quên trong chiến thắng, không hề đắm say trong huyền thoại mà quên mất mình phải làm gì. Heng, và những người dân làng Xô Man khác, đều đang tích cực chuẩn bị để tự mình tiếp tục tạo nên huyền thoại mới.
Câu 7: Ý nghĩa hình tượng rừng xà nu.
Trả lời:
Đây là hình tượng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, được lặp đi lặp lại gần 20 lần, bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn.
(Có thể trích dẫn vài chi tiết miêu tả hình tượng rừng xà nu: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương..”; “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy”; … hoặc lúc sau khi phân tích theo từng ý thì chủ động lựa chọn dẫn chứng phù hợp)
- Là hình ảnh mở đầu, cũng là hình ảnh kết thúc thiên truyện. Mở đầu là “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, kết thúc là “những rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”, như một nét nhạc trầm hùng láy đi láy lại trong câu chuyện sử thi, như một tấm phông nền lớn cho cả một huyển thoại.
=> Rừng xà nu như thể chính là một cái “nền” cho bức tranh sống động về con người Tây Nguyên. Mọi sự kiện lịch sử đều diễn ra trên cái màu xanh bất tận của cánh rừng, mọi xúc cảm của con người đều được những cây xà nu chứng kiến và trân trọng.
- Là một loài cây rất quen thuộc và gắn bó với người dân núi rừng Tây Nguyên, xuất hiện trong cả đời sống sinh hoạt hàng ngày, tham dự vào những tâm tình của con người nơi đây, cũng như chứng kiến những buồn vui của con người trong cuộc chiến đấu chống Mĩ anh dũng.
=> Cây xà nu như một người bạn, như một người anh em, cũng như một bằng chứng lịch sử sống động cho những năm tháng đấu tranh của con người. Rừng xà nu cũng là niềm tự hào của làng Xô Man, khi chính cụ Mết cũng từng nói: “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” …
- Rừng xà nu cũng là một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng:
+ Biểu trưng cho vẻ đẹp của người dân làng Xô Man (quật cường, bất khuất đầy sức sống, luôn vươn mình vượt lên mọi thương đau, thể hiện một sức sống tiềm tàng) – chọn dẫn chứng phù hợp
+ Gắn với số phận của người dân làng Xô Man, cũng mang trong mình những thương tích, những dấu vết của chiến tranh như con người ngôi làng ấy
+ Biểu trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng mãnh liệt
- Rừng xà nu thể hiện sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành.
*****************
Nguồn: Sưu tầm
Post a Comment
Post a Comment